Tôi nuốt chửng từng câu từng chữ trong lời nói của bác hai. Không chỉ riêng mình tôi cảm thấy ngờ vực trước câu nói của bác mà đến cả bác hai khi nói xong câu nói đó nét mặt cũng hiện rõ sự nghi ngờ chính bản thân mình.
“Nét chữ này…” Bác đưa tay sờ lên giá gỗ đỡ bộ váy thêu hoa đỏ. Tôi đưa mắt nhìn theo từng ngón tay của bác, ở đó có khắc hai chữ cái “H” và “K” lồng vào nhau. Tôi nghĩ theo chiều hướng đơn giản thì hai chữ cái này biểu thị cho tên của bác – Hùng Khải. Nét chữ này đối với tôi vô cùng quen thuộc, khi còn nhỏ mỗi lần chơi trò trốn tìm tôi đều lẻn vào phòng của bác hai nấp, cho nên nét chữ của bác trên các bản vẽ kiến trúc tôi từng thấy qua rất nhiều lần.
Giọng bác hai lúc này vẫn biểu thị rõ sự ngờ vực: “Mỗi lần xây dựng hay phục hồi một công trình nào đó, tao đều dùng phấn màu để đánh dấu những vị trí tao chưa phục hồi được hoặc là gặp vấn đề khó giải quyết. Tao không biết sự tồn tại của nét khắc này ở đây, nhưng tao dám khẳng định cách đánh dấu độc nhất vô nhị này cả thế giới này chỉ có mình tao có.”
Thế thì chuyện này càng quỷ dị rồi.
Đúng lúc đó thì bên ngoài bỗng nhiên vang lên một tiếng gầm vô cùng chói tai. Hai bác cháu tôi vừa nghe đã nổi da gà, khốn nạn con mãng xà kia quay trở lại rồi.
“Không còn nhiều thời gian nữa, mau đi tìm nơi tế trời!” Bác hai nói, sau đó vội vàng bước lên bậc cầu thang gỗ, tôi cũng nhanh chóng theo sau đuôi bác. Trước lúc bước lên cầu thang tôi không quên quay đầu lại nhìn bộ váy đỏ thêu hoa kia thêm một lần nữa.
Chúng tôi lên tới tầng số hai, nơi đây không có gì đặc biệt chủ yếu là chứa mấy cái vại gốm vô cùng to. Nếu như thời cổ xưa thì có lẽ những cái vại này dùng để giữ nước.
Hai bác cháu tôi không nán lại lâu, sau khi quan sát một lượt chúng tôi lại tiếp tục đi lên tầng ba. Thật không thể tin được, nơi đây lại chính là một nơi chứa các đồ dùng làm bếp như nồi đồng, trạn để bát gốm, chảo lớn,… và rất nhiều các đồ vật khác. Đây đích thị là một phòng bếp được thiết kế theo phong cách cổ xưa.
“Cái quái quỷ gì thế này!” Hai đuôi mắt của bác hai cong lên, nét mặt vô cùng căng thẳng.
“Tao nghĩ thế quái nào cũng thấy lạ, rõ ràng nhìn tổng thể bên ngoài thì đây đích thị là một cái Thiên Đàn. Nhưng vào bên trong nó chẳng khác nào một căn nhà bình thường, có phòng chứa đồ, phòng trưng bày, giờ lại đến cả bếp. Tao chưa từng thấy một loại kiến trúc nào kì quái như vậy.”
“Có khi nào người xây dựng nên toà cổ Đàn này đang đánh lừa ảo giác của chúng ta không?” Nếu là ảo giác thì tốt rồi, chỉ cần tỉnh lại mọi thứ đều quay trở lại ban đầu.
Bác hai không nói gì thêm, bác vội vàng đi lên tầng số bốn. Nơi đây chính xác là một thư phòng, có các giá sách lớn nhỏ, bàn đọc, nghiêng mực đã khô cạn, và đặc biệt hơn trên mặt bàn có một bức tranh đang vẽ giở.
Tôi và bác hai tiến lại gần và quan sát, trên bức tranh miêu tả lại một trận chiến vô hoành tráng của một bộ tộc người. Trong tranh miểu tả người thủ lĩnh đứng hiên ngang trên yên ngựa, tay cầm kiếm giơ lên trời. Xung quanh là chiếc sĩ đang reo hô, người cầm cờ, người cầm kiếm, người cầm gậy. Nhìn khí thế này thì đội quân trong tranh có vẻ đã chiến thắng.
“Là miêu tả lại tên thủ lĩnh bộ tộc Can Chi sao?” Như để khẳng định lại, tôi hỏi bác hai.
“Trong nhà của ông ta không phải vẽ ông ta thì chẳng nhẽ vẽ tao à?”
Bác hai rời mắt khỏi bức tranh, bác quay người bước đến giá sách gỗ phía sau lưng.
Tôi thở dài một cái, câu nói của bác hai thật làm cho người ta mất hứng. Đúng lúc đó khi định bỏ qua bức tranh này thì tôi lại nhìn thấy một tờ giấy khác nằm bên dưới bức tranh. Tôi lật bức tranh kia ra, trước mắt tôi lúc này là một tờ giấy ố vàng to cỡ khổ giấy A3.
“Bác hai.. đây là thứ gì?” Tôi gọi bác hai, tuy nhiên vẫn không rời mắt khỏi tờ giấy trên mặt bàn.
Bác hai đặt lại cuốn sách lên trên giá gỗ, sau đó thì quay lưng tiến lại gần phía tôi.
Nét mặt bác lúc này trở nên cứng đơ, đôi bàn tay run run chạm vào tờ giấy ố vàng. Tôi chưa bao giờ thấy bác hai có phản ứng hoảng loạn như vậy. Cái phản ứng vô dụng này nó giống tôi hơn là giống con người thường thấy của bác hai.
Miệng bác bắt đầu lắp bắp: “Toàn kiến trúc trong bản vẽ này… là do chính tay tao vẽ…”
Tôi lúc này miệng cũng há hốc hình chữ “O”.
“Là bác vẽ… làm sao có thể!”
“Đây là bản vẽ của tao ba năm trước, Hùng Dũng đã dùng nó để xây dựng kết cấu kiến trúc của nhà từ đường.” Vừa nói, đôi tay run rẩy của bác hai khẽ lật ra phía sau tờ giấy, nơi đó lại xuất hiện hai chữ “H” và “K” lồng vào nhau. Điều này hiển nhiên chứng minh, đây chính là bản vẽ của bác.
“Tuy nhiên nói đi cũng phải nói lại… bản vẽ của tao được vẽ bằng giấy chuyên dụng, cho dù có trăm năm trôi qua cũng sẽ không bị ố vàng. Nhưng nhìn chất giấy này… tao thật sự không biết phải giải thích làm sao!”
Tờ giấy trên bàn bị ố vàng sờ lên cũng vô cùng ráp, đây đích thị là chất giấy của thời cổ khi chưa có những máy móc chế tạo giấy hiện đại như bây giờ.
Không chỉ mình bác hai mà đầu óc tôi cũng choáng váng vô cùng.
Lúc đó toà cổ Đàn đột nhiên rung lên một trận mạnh, tôi và bác hai chao đảo vài vòng mới có thể lấy lại thăng bằng. Chúng tôi đưa mắt nhìn xuống bên dưới tòa cổ Đàn, con mãng xà lúc này nó dùng cái đuôi của nó đập mạnh vào một trong năm cây trụ chính dùng để chống đỡ tòa cổ Đàn.
“Mau lên bên trên…” Bác hai kêu lớn, tôi cũng vội vàng leo lên cầu thang để lên tầng số 5.
Thật không thể tưởng tượng được, tầng số 5 lại chẳng khác nào một cái hầm chứa vô số tượng binh mã bằng đất nung. Chúng tôi chưa kịp quan sát thêm thì tòa cổ Đàn lại tiếp tục rung lên lần thứ hai.
Hai bác cháu tôi lại tiếp tục leo lên tầng số 6. Tầng số 6 có kiến trúc khác hoàn toàn với những tầng còn lại, mặt trước của nó quay ngược lại so với 5 tầng còn lại. Có nghĩa là, nếu dùng một hướng để quy định hướng của 5 tầng bên dưới là hướng tây, thì hướng của tầng số 6 lại là hướng đông. Hai bác cháu tôi phải đi vòng qua một hàng lang nhỏ mới thấy được mặt trước của tầng số 6. Tuy nhiên điều làm chúng tôi bất ngờ hơn chính là tầng số 6 là một căn phòng rỗng không hề chứa bất kì một đồ vật nào.
“Cái quái gì thế này… đi một vòng cuối cùng chẳng thấy có cái chết mẹ gì sao?” Tôi thở dài một hơi, đầu óc vô cùng mơ hồ.
“Tiếp tục đi lên tầng cuối cùng, dù cho có thiết kế kiến trúc kỳ quái như thế nào thì nhất định vẫn phải có nơi để tế trời.”
Đúng như bác hai nói, tầng số 7 chính xác là một nơi để tế trời đất. Nơi đây có điện, có lư hương, có kiếm, có lư đốt vàng mã,… Điều đáng chú ý hơn là hướng quay của tầng số 7 này trùng khớp với 5 tầng bên dưới. Cho nên chỉ có tầng số 6 là khác biệt.
Tầng số 7 có kiến trúc thường thấy của những Thiên Đàn khác. Bác hai nói theo kiến trúc cổ thì nơi này được gọi là Viên Khâu Đàn, hay còn gọi là bệ thờ chính dùng để tế trời. Tầng số 7 là một đài rỗng hình tròn, dưới nền được lát bằng đá hoa cương. Lan can xung quanh được nối bằng gỗ Đàn Hương có màu vàng óng, thi thoảng tôi còn ngửi thấy một mùi thơm thoảng thoảng tỏa ra từ loại gỗ này vô cùng dễ chịu.
Một bệ đá lớn được đặt giữa trung tâm của tầng số 7, bên trên tảng đá là một cái lư hương màu đồng. Phía sau lư hương là ba bài vị bằng tế trời bằng gỗ. Trên ba bài vị này được khắc vô số những hoa văn và kí tự Hán cổ mà tôi chẳng thể dịch được.
Bác hai tiến lại gần đàn tế trời và quan sát ba tấm bài vị kia.
“Trên đó viết gì thế bác hai?” Tôi hỏi.
Bác hai quan sát một hồi, sau đó đôi chân mày cong lại nhìn tôi, bác nói: “Mày còn nhớ trong mộng cảnh tao với mày đi vào bên trong một ngôi miếu cổ chứ!”
Tôi gật đầy, đương nhiên là tôi nhớ. Một nơi có ấn tượng mạnh mẽ như vậy thì tôi làm sao có thể quên được.
“Mày còn nhớ ba trụ đá phía trước ngôi miếu không? Nội dung khắc trên đó và nội dung khắc trên ba tấm bài vị này hoàn toàn là một.”
Đầu óc tôi choáng váng, khi đã có rất nhiều bí mật chưa thể tháo gỡ thì lại liên tiếp xuất hiện những vấn đề không những không thể lý giải mà đến cả việc hiểu về nó tôi còn chưa hiểu được.
“Không phải bác nói trên ba trụ đá đó là khắc bài thơ cổ sao?”
Bác hai gật đầu nói: “Chính là khắc bài thơ cổ, ở trên ba bài vị này cũng vậy cũng là bài thơ cổ đó. Chỉ có điều ý nghĩa thực sự của bài thơ này tao vẫn chưa hiểu được. Bởi tao luôn cảm thấy rằng, bài thơ này chưa hoàn chỉnh giống như là vẫn còn thiếu một phần vậy.”
Lúc đó, toà cổ Đàn lại rung lên lần thứ ba, khốn nạn con cự mãng bên dưới vẫn canh chừng dưới đó không hề rời đi. Tôi cảm giác như nó đang âm mưu tính toán điều gì đó vậy. Loài này sống mấy trăm năm không thành quỷ thì cũng thành tinh.
Mẹ kiếp lúc này đây không phải là lúc cần nghiên cứu ba bài vị kia, chúng tôi cần tìm quan tài của chủ mộ và tìm lối thoát ra ngay lập tức, nếu không con mãng xà kia điên lên nó đập nát cái toà cổ Đàn này thì coi như hai bác cháu tôi đi tong.
Nhưng mà đã đi hết bảy tầng rồi vẫn không nhìn thấy bóng dáng quan tài của tên thủ lĩnh bộ tộc Can Chi. Rốt cuộc ông ta đã giấu xác của mình ở nơi quái quỷ gì nào?
“Theo lý mà nói, dù xét về ngũ hành hay phong thủy thì quan tài của ông ta nhất định là được đặt ở đây, không thể sai được!” Bác hai điên loạn quay tứ phương đảo mắt tìm quan tài.
Tôi lúc này cũng không ngoại lệ, và điều bất ngờ đã xuất hiện, khi ngước đầu lên nhìn vòm mái ngói uốn lượn tôi đã nhìn thấy một chiếc quan tài gỗ vô cùng lớn treo lơ lửng trên trần tầng số 7.
“Bác hai.. thấy rồi!” Tôi hét lớn gọi bác hai.
Đúng như suy luận của bác hai, tên thủ lĩnh này tự coi mình là cái rốn của vũ trụ, là con của trời nên chỉ có mình ông ta mới được quyền tế trời. Cho nên đã thiết kế chiếc quan tài của mình ở một vị trí cao như vậy.
“Làm sao để trèo lên trên chiếc quan tài đó bây giờ?” Tôi lo lắng thắc mắc.
“Đồ ngốc, mày không nghĩ rằng lúc an táng ông ta người ta cũng trèo lên đấy để cất xác à! Nhất định là có cơ quan để khởi động!”
Bác hai nói có lý, thế là tôi vội vàng đi tìm cơ quan để chuyển chiếc quan tài kia xuống.
Tôi đưa mắt nhìn lan can, đưa mắt nhìn trần nhà rồi cuối cùng tôi đưa mắt nhìn cái đàn tế trời. Tại đó tôi phát hiện, chiếc lư hương được đặt hơi lệch sang một bên, đồng thời tôi còn thấy rằng chiếc lư hương này đặt có chút lệch về bên trái. Thông thường hình rồng rằng được vẽ trên lư hương phải hướng ra chính diện bên ngoài. Tuy nhiên lúc này, cái đầu rồng nó lại lệch sang bên trái.
Tôi tiến lại gần chiếc lư hương, sau đó đặt hai tay lên chiếc lư hương dó, cuối cùng thì dùng sức để di chuyển. Sau khi tôi di chuyển để cho cái đầu rồng được quay trở về chính giữa của mặt trước thì cũng là lúc phía trên đầu tôi phát ra những tiếng cót két của kim loại va chạm vào nhau.
Thật không thể tin được, chiếc lư hương kia chính là nơi khởi động cơ quan. Chiếc quan tài lúc này đây đang từ từ hạ dần xuống trước mặt hai bác cháu tôi.
The comment box
Theo dõi
Đăng nhập
0 Góp ý