Bạn đang đọc: MƯỢN TAY NUÔI NGẢI

Chương 8 – Đại lễ cầu siêu

25/12/2023
 
 

Chương 8: Đại lễ cầu siêu

Ông Hai bước ra khỏi nhà trò thì trời đã sáng rõ, bên ngoài tấp nập người đi lại mua bán. Thấy ông Hai từ trong bước ra, quần áo trên người tả tơi rách nát nhưng vẻ mặt vẫn thản nhiên như không ai nấy đều lấy làm sửng sốt lắm. Đã lâu không còn ai dám bén mảng ra đường vào buổi tối nên khu nhà trò này cũng không có ai bị lũ trẻ ma dẫn dụ vào nữa. Nhưng những ám ảnh trước đây thì chưa ai quên được. Trong kí ức của những người ở đây, tất cả những người bước ra từ khu nhà trò sau khi bị bỏ hoang đều ở trong trạng thái hoảng loạn, mặt cắt không còn giọt máu. Họ chưa từng gặp qua ông Hai bao giờ. Ông là ai, từ đâu tới, và vì sao lại thản nhiên bước ra từ nhà trò bị đồn thổi là có ma ám với điệu bộ tả tơi nhưng khuôn mặt cứ thản nhiên như không như vậy?

Tò mò người ta bỏ cả việc buôn bán đi theo sau chân ông Hai xem ông đi đâu. Ông biết những người sau lưng đang chỉ trỏ bàn tán về mình nhưng mặc kệ không quan tâm mà thẳng đường về tiệm vải Hoa Gấm. Đến nơi thấy vợ chồng Trần Dương đã bày xong hàng hoá, cả hai đang đứng ở cửa nhìn thẳng ra đường như đang chờ đợi ai đó. Vừa trông thấy điệu bộ thảm hại của ông, cả hai đã lao ra sốt sắng hỏi:

“Ông Hai, sao giờ này ông mới về. Trời ơi có chuyện gì mà ông lại thành ra điệu bộ như thế này?”

Ông Hai cười xoà đưa tay vuốt bộ râu của mình ra chiều là mình vẫn ổn, mặc dù sắc mặt ông đã nhợt nhạt đi trông thấy. Ông biết có rất đông người đang tò mò về mình nhưng vẫn thản nhiên đứng trước cửa mà nói chuyện. Ông biết, đã đến lúc những người dân trong trấn cũng cần phải biết nguồn cơn của sự việc.

“Ta không sao, cô cậu đừng lo. Đêm qua ta đã biết lũ trẻ đó là ai, và vì sao suốt năm năm qua trong trấn này không có đứa trẻ nào được sinh ra rồi.”

Lời của ông Hai vừa dứt, những người đứng hóng chuyện ở phía sau không còn im lặng nữa, họ vây lấy ông Hai và vợ chồng Trần Dương mà hỏi dồn:

“Ông nói thật sao? Thật là ông biết chuyện chứ? Ông là thầy pháp sao?”

Một số người đàn bà thì vẫn đứng ở xa mà chỉ trỏ rồi to nhỏ với nhau:

“Đó tôi đã nói rồi mà, nhìn ông ấy là biết ngay không phải người tầm thường rồi. Làm gì có ai mà bước vào khu nhà ma ám ấy trở ra lại bình thản thế kia được. Chỉ có là thầy pháp thôi. Mà cũng phải là thầy pháp cao tay mới không bị chúng đánh cho phải bỏ chạy giống như những người trước đây.”

Rất nhiều câu hỏi được đặt ra cùng một lúc khiến ông Hai rối não không biết nên trả lời câu hỏi nào trước. Lúc này Trần Dương bước ra trước đám đông vẫn còn đang nhốn nháo đưa tay ra hiệu cho mọi người im lặng rồi nói:

“Thưa bà con, trước hết xin bà con hãy im lặng nghe tôi nói. Xin giới thiệu đây là ông Hai, là bạn của ông cụ thân sinh ra tôi, cũng là người có am hiểu về đạo pháp trấn ma trừ quỷ. Ông Hai tình cờ có dịp đi qua trấn Rừng Thông của chúng ta và phát hiện ra những sự lạ xảy ra ở đây. Suốt hơn một tuần vừa rồi ông đã âm thầm tìm hiểu sự tình, và hôm nay đã có câu trả lời chính xác về những gì đang xảy ra ở trong trấn. Bây giờ chúng ta hãy giữ im lặng và nghe ông Hai tường thuật lại những chuyện mà ông đã tìm hiểu được, có được không ạ?”

Lời của Trần Dương vừa dứt thì những tiếng xì xào cũng lập tức im bặt. Những người dân ở dọc hai bên dãy phố bỏ ngang công việc buôn bán của mình tập trung hết trước cửa tiệm vải Hoa Gấm để hóng sự lạ. Ông Hai đứng giữa đám đông chắp tay kính cẩn chào hỏi rồi mới dõng dạc nói:

“Xin chào bà con. Thực ra tôi cũng không phải là thầy pháp gì cả, chỉ là một người có căn duyên với phật pháp nay có dịp ghé qua trấn của mình thấy sự lạ nên có tìm hiểu qua một chút. Trải qua một đêm ở trong khu nhà trò bị bỏ hoang tôi đã tìm hiểu ra được căn nguyên của mọi chuyện. Nay vừa hay có đông đủ bà con ở đây xin được kể ra rồi chúng ta cùng nhau tìm cách hoá giải.”

Tất cả đám đông im lặng tập trung nghe ông Hai nói không bỏ sót một từ. Ông chậm rãi kể lại toàn bộ những gì mình đã trải qua suốt hơn một tuần ở trong trấn, bắt đầu từ cái đêm mà lũ trẻ gõ cửa nhà của Trần Dương, cho đến chuyện ông chơi đùa cùng lũ trẻ, rồi đến những gì ông thấy được trong kí ức của con bé Sún nhờ lá bùa tương thông vào đêm hôm trước. Lời kể của ông vừa dứt, những tiếng xì xào lại bắt đầu vang lên. Một người trong số họ nói lớn:

“Vậy thì chắc chắn mọi chuyện là do con bé Sún và những vong hồn thai nhi bị phá bỏ kia vì oán hận mà nguyền rủa trấn này rồi. Nếu như đã biết nguyên nhân, vậy ông Hai có cách nào để hoá giải lời nguyền này hay chưa? Nếu biết xin ông hãy giúp chúng tôi, hãy cứu lấy trấn này, chỉ cần cuộc sống được quay về như trước đây ông muốn bao nhiêu tiền chúng tôi cũng trả.”

Ông Hai liền đáp:

“Thực ra đối phó với lũ trẻ này không có gì là khó cả, chúng căn bản không phải là đối thủ của ta. Nếu muốn ta chỉ cần dùng đạo pháp của mình đánh cho chúng hồn tiêu phách tán, vĩnh viễn không thể siêu sinh, theo đó lời nguyền chúng ám lên nơi này cũng bị tan biến. Nhưng cái khó là ở chỗ, ẩn sâu bên trong chúng vẫn chỉ là những đứa trẻ, là những vong hồn bị bỏ rơi đáng thương hơn là đáng trách. Việc chúng nguyền rủa trấn này cũng chỉ vì xuất phát từ số phận của bản thân mà sinh ra tiêu cực, chúng không muốn có bất kì đứa trẻ nào xuất hiện ở đây và phải chịu số phận bất hạnh như chúng nữa. Căn bản từ lúc xuất hiện trên cõi đời này chúng chỉ quanh quẩn ở trong nhà trò không được biết thế giới bên ngoài như thế nào mới sinh ra lời nguyền độc địa đó. Cái khó ở đây là ta muốn làm cách nào để thức tỉnh linh hồn của lũ trẻ khỏi u mê, khiến chúng hồi tâm chuyển ý buông bỏ thù hận mà chấp nhận đi đầu thai chuyển kiếp. Với tình hình này ta e rằng chỉ thêm một thời gian nữa linh hồn chúng sẽ hoá thành ngoạ quỷ, vĩnh viễn không thể siêu sinh. Và hoạ ở trấn này cũng ngày một nguy hiểm hơn.”

Trần Dương đứng bên cạnh cũng vội lên tiếng hỏi:

“Hôm trước ông có nói chỉ cần biết được lũ trẻ ấy là ai và lý do vì sao chúng xuất hiện trong trấn là sẽ tìm được cách hoá giải, có phải bây giờ ông đã biết chúng ta phải làm gì rồi đúng không?”

Ông Hai gật đầu mà đáp:

“Phải, cách thì ta đã có, chỉ có điều ta vẫn còn một thắc mắc này chưa giải đáp được. Nếu như có câu trả lời thích đáng thì mọi chuyện sẽ được giải quyết nhẹ nhàng hơn, bằng không thì chúng ta cũng phải liều mình một phen vậy.”

“Còn chuyện gì khó nói sao? Xin ông cứ nói ra, nếu biết chúng tôi nhất định không dấu diếm.”

Cả đám đông đồng loạt lên tiếng. Ông Hai trầm ngâm một hồi rồi lại nói:

“Đêm hôm qua do bùa chú của ta hết thời hạn nên chưa kịp hỏi thông tin về mẹ của con bé Sún. Suốt mấy năm qua lũ trẻ vẫn bám trụ ở nhà trò một phần là để chờ đợi mẹ chúng quay lại đón. 17 vong hồn của những thai nhi bị phá bỏ thì không quan ngại lắm, vì qua tiếp xúc ta thấy chúng rất đơn thuần, mọi chuyện đều nghe theo sự sắp xếp của con bé Sún cả. Chỉ cần tác động được vào linh hồn của bé Sún thì mọi chuyện có thể hoá giải một cách dễ dàng. Tuy con bé có lòng thù hận rất lớn với con người, nhưng khi nhắc về mẹ mình nó vẫn rưng rưng xúc động. Chỉ cần tìm được mẹ của cô bé về đây, ta tin là mọi chuyện sẽ kết thúc trong êm đẹp. Mọi người ở đây có ai biết mẹ cô bé là ai, và hiện giờ đang ở đâu hay không?”

Cả đám đông lại rơi vào im lặng, không ai nói gì thay cho câu trả lời. Đa phần những người có mặt ở đây là đàn bà con gái đi chợ bán hàng, mặc dù không nói ra nhưng ai cũng ghét cay ghét đắng khu nhà trò ấy. Ai cũng biết thực chất nó là một chốn thanh lâu trá hình, họ chỉ hận là không thể đốt cháy nó ngay lập tức chứ nói gì là giao du qua lại. Cánh đàn ông thì cũng lắc đầu nguầy nguậy tỏ ý không biết, ở nơi buôn hoa bán phấn người ta còn muốn khai gian tuổi tác để tăng độ trẻ trung xinh đẹp cho những ả đào, huống gì chuyện có con riêng thì nào ai bô bô kể ra với khách mà làm gì? Thêm nữa đa phần những cô gái ở đây nếu lỡ ra họ đều phá bỏ, chẳng ai đẻ ra thứ của nợ ấy mà làm gì. Còn ông bà chủ nhà trò con cái đều đã lớn cả, mà chính cả hai ông bà cũng đều chết ngay tại khu nhà trò ấy rồi nên cũng có thể loại trừ khả năng chúng là con của bà chủ. Còn những người hầu, gia nhân trong nhà thì lại càng khó biết, bởi làm gì có ai quan tâm đến con của họ mà làm gì? Suy cho cùng cũng chẳng ai biết được con bé Sún là con của ai.

Thấy không ai trả lời, ông Hai lại tiếp tục nói:

“Đó là một cô gái trẻ, da trắng tóc dài rất kiều diễm. Cô ta được gả đi lúc con bé tầm 5 tuổi, ngày thành hôn khắp trong ngoài nhà trò treo đầy đèn lồng đỏ. Mà phải rồi, cô ta có mối quan hệ khá thân thiết với một người đàn bà béo tướng người phốp pháp, có vẻ như là bà chủ của khu nhà trò thì phải. Ta còn nghe được bà ta gọi mẹ, xưng con với cô gái ấy trong ngày thành hôn.”

Nãy giờ mải nói ông Hai không để ý đến thái độ của Trần Dương, gương mặt cậu đỏ gay gắt, toàn thân bắt đầu run lên nhè nhẹ. Cậu nắm chặt hai bàn tay mình, mím môi chần chừ một hồi rồi cũng lên tiếng:

“Có lẽ tôi biết mẹ con bé là ai…”

Cả đám đông đổ dồn ánh mắt về phía cậu. Ông Hai gặng hỏi ngay:

“Thật vậy sao? Vậy giờ cô ta ở đâu, còn sống hay đã chết cậu biết chứ?”

Trần Dương đáp:

“Theo như những gì ông kể và những thông tin trước đây tôi cho người theo dõi thu thập được, thì rất có thể con bé ấy chính là con gái của Xuân Nương, ả đào đệ nhất mĩ nhân của khu nhà trò lúc bấy giờ. Và…. cũng là người mà Trần Lực em trai tôi sống chết đòi cưới làm vợ. Ấy vậy mà thằng bé vừa mất tích chưa được bao lâu cô ta đã vội có thai với người khác. Sở dĩ chuyện này không ai biết vì lúc ấy cô ta vừa là con gái nuôi của bà chủ nhà trò, vừa là ả đào nổi tiếng bậc nhất được nhiều người săn đón, là con át chủ bài để câu kéo khách. Tôi phải cho người âm thầm theo dõi tốn rất nhiều tiền bạc và công sức mới phát hiện ra bí mật động trời này. Chuyện xảy ra vào hơn 10 năm trước, hơn 5 năm trước thì tôi hay tin cô ta được gả cho một vị phú ông giàu có ở gần mạn kinh thành. Nếu cô ta đẻ đứa bé lúc ấy ra, thì chắc nó cũng bằng tầm tuổi cô bé mà ông nói. Xâu chuỗi mọi chuyện lại với nhau, thì gần như chắc chắn con bé là con gái của Xuân Nương rồi.”

Nhắc đến cô đào Xuân Nương thì cả trấn này không ai là không biết. Khoảng thời gian trước cô nổi tiếng về sự xinh đẹp và giọng ca cao vút của mình. Tuy nhiên chuyện cô từng có một đứa con thì không một ai hay biết gì cả. Đến cả ông Hai cũng vô cùng bất ngờ trước thông tin này. Vậy ra cô gái trong bộ đồ cô dâu màu đỏ ông thấy trong kí ức của con bé Sún chính là Xuân Nương, người mà Trần Lực vẫn luôn nhắc tới. Thật không ngờ ông lại gặp cô trong hoàn cảnh trớ trêu như vậy. Ông lắp bắp hỏi:

“Vậy cậu có biết Xuân Nương được gả đến đâu, và có cách nào để liên lạc với cô ấy không?”

Trần Dương lắc đầu không nói gì. Cũng phải thôi, qua thái độ của cậu từ lần đầu gặp đến nay, ông Hai biết cậu hận Xuân Nương còn không hết nói gì quan tâm đến chuyện đời tư của cô sau khi cô đã phản bội tình cảm của Trần Lực như vậy. Lúc này trong đầu ông Hai chợt loé lên hình ảnh chiếc khăn tay bằng lụa được cất trong chiếc hộp đựng vàng bạc của Trần Lực. Cơ mặt ông dãn ra đôi chút, ông khẽ gật gù rồi mỉm cười, cứ như ông vừa phát hiện ra điều quan trọng vậy.

Đám đông phía dưới vẫn đang thôi không ngớt bàn tán về cô đào Xuân Nương lừng danh một thời. Một lần nữa ông Hai phải ra hiệu cho họ im lặng lại. Ông khẽ hắng giọng rồi nói:

“Xin mọi người hãy giữ trật tự. Bây giờ tôi đã có đủ thông tin mà mình cần, mọi chuyện cũng đã có dự liệu của mình. Hiện tại Xuân Nương được gả đi đâu, sau từng ấy năm cô ta còn sống hay đã chết là điều mà không ai biết chắc chắn cả. Trong trường hợp không tìm được Xuân Nương về đây, chúng ta vẫn phải tự mình giải quyết mọi chuyện. Để hoá giải lời nguyền trong trấn này cần có sự giúp sức đồng lòng của tất cả người dân trong trấn chúng ta. Giờ tôi cần chuẩn bị một số đồ cho việc đại sự sắp tới, chẳng hay mọi người có thể giúp tôi được không?”

Tất cả đều đồng thanh hô to đồng ý. Chỉ cần giải được lời nguyền tuyệt tự ở trong trấn này, có phải trả giá đắt đến đâu họ cũng bằng lòng. Ông Hai nghe vậy thì lấy làm hài lòng lắm, ít ra trong trấn này tất cả người dân đều là những người có tấm lòng lương thiện, ông tin là họ xứng đáng nhận được những điều tốt đẹp ở phía sau. Ban nãy ông Hai đã nói, để giải lời nguyền, ông chỉ cần dùng đạo pháp đánh cho linh hồn lũ trẻ hồn tiêu phách tán là xong. Nhưng nãy giờ tuyệt nhiên không một ai đề cập đến cách này cả. Họ cũng giống như ông, có tấm lòng lương thiện muốn hoá giải mọi chuyện bằng một cách có thể phức tạp và khó khăn hơn, nhưng có thể giúp lũ trẻ được siêu sinh tịnh độ. Ông mỉm cười rồi lại nói:

“Bây giờ cách duy nhất ta có thể nghĩ ra lúc này là tổ chức lễ cầu siêu cho linh hồn lũ trẻ. Dùng chính sự lương thiện của mỗi người dân ở đây, dùng chính khát vọng thèm muốn có một đứa con của mình để hoá giải oán hận cho lũ trẻ, khiến chúng hồi tâm chuyển ý mà buông bỏ oán hận chấp nhận đi đầu thai chuyển kiếp. Ta không chắc cách của mình có thực sự hiệu nghiệm hay không, nhưng đây là cách duy nhất ta nghĩ ra vào lúc này. Mọi chuyện chúng ta còn phải chờ vào ý trời nữa. Trong trường hợp xấu nhất linh hồn lũ trẻ hoá quỷ dữ mà làm hại đến những người khác, ta mới buộc lòng phải đánh cho chúng hồn tiêu phách tán.

Để chuẩn bị cho đại lễ cầu siêu, ta cần chuẩn bị một số đồ đạc như sau, cảm phiền mọi người lo giúp. Trước hết là 18 tiểu quách cùng đồ để bốc mộ. Ta muốn chôn cất lũ trẻ lại cho tươm tất, bởi phải mồ yên mả đẹp thì linh hồn của người chết cũng mới dễ dàng đi siêu sinh được. Bao năm qua chúng nằm lạnh lẽo dưới lòng đất, không có một nấm mồ từ tế, cũng không ai hương khói gì cả. Nghĩ đến thôi cũng đã thấy đau lòng rồi. Thứ hai là đồ lễ bao gồm nhang đèn và đồ cúng, là những thứ mà ngày thường lũ trẻ con vẫn thường hay thích như hoa quả và bánh kẹo. Thứ 3, vào ngày diễn ra đại lễ cầu siêu, ta cần có sự góp mặt của tất cả đàn bà phụ nữ trong trấn, đặc biệt là những ai có khao khát được làm mẹ. Tất cả chúng ta sẽ cùng nhau hợp sức lại niệm kinh cầu siêu cho bọn nhỏ, khiến chúng nhận ra được sự chân thành của mình và buông bỏ hết oán niệm. Mọi người có làm được không?”

Những tưởng ông Hai yêu cầu vàng bạc châu báu hay những gì cao siêu lắm, chỉ nhiêu đó thôi thì quá đơn giản với những người dân trong trấn. Duy chỉ có một điều là hơi khó khăn, vì trong trấn không có sẵn nhiều tiểu quách như vậy. Để chuẩn bị đủ số lượng cho tươm tất ít nhất cũng phải cần đến một tuần. Ông Hai nhẩm tính trong đầu, một tuần nữa cũng là khoảng thời gian hợp lý, dù gì ông cũng đang còn những suy tính riêng của mình. Vì vậy ông ra lời hẹn với người dân trong trấn, đúng một tuần nữa sẽ gặp lại nhau sau khi chuẩn bị đủ mọi đồ đạc lễ lạc để tiến hành làm đại lễ cầu siêu cho lũ trẻ, cũng chính là cầu bình an cho toàn bộ trấn Rừng Thông. Trước khi mọi người ra về, ông không quên căn dặn trong thời gian này mọi người vẫn phải hạn chế ra ngoài vào buổi tối, vì linh hồn lũ trẻ đang bị kích động rất có thể sẽ gây ra nguy hiểm cho ai tiếp cận với chúng.

Đám đông giải tán, ông Hai cũng mệt mỏi lê bước về phòng. Ông thay ra bộ đồ bị lũ trẻ vần cho rách nát rồi tắm rửa cho tỉnh táo. Lúc này ông mới để ý đến những vết trầy xước đang rớm máu trên khắp cơ thể mình. Mở tay nải ông lấy ra một hũ thuốc bên trong có chứa một loại cao đặc màu trắng, nhẹ nhàng bôi thứ cao ấy lên khắp các vết thương. Đây đều chỉ là những vết thương ngoài da không có gì đáng ngại cả. Xong xuôi đâu đấy, ông tiến lại phía sau tủ quần áo lấy ra hộp gỗ được Trần Lực cất giấu ở đó. Mọi đồ vật vẫn còn nguyên vẹn như lần đầu tiên ông mở nó ra. Bỏ cái hộp và chỗ vàng bạc qua một bên, ông Hai chỉ lấy ra duy nhất cái khăn tay bằng lụa, ngắm nghía nó một hồi lâu rồi cất vào trong người mình. Thật không ngờ lại có ngày ông cần dùng đến nó.

Cất cái hộp gỗ vào chỗ cũ, ông Hai bước ra ngoài cửa tiệm trước con mắt ngạc nhiên của vợ chồng Trần Dương. Họ giữ ông lại mà hỏi:

“Bác đi cả đêm rồi không tranh thủ nghỉ ngơi một chút còn đi đâu nữa ạ? Hay là bác cần gì cứ bảo với chúng tôi một tiếng, chúng tôi sẽ mang về cho bác.”

Ông Hai phẩy tay rồi nói:

“Ta sực nhớ ra còn có việc chưa làm, đi một lát rồi quay lại ngay. Chuyện này mà chậm trễ ta e là không kịp mất. Mà phải rồi tiện đây cho ta hỏi, nước dùng trong nhà này được lấy từ đâu vậy?”

Vợ Trần Dương liền đáp:

“Mọi sinh hoạt đều lấy nước từ cái giếng ở ngay sau nhà. Giếng ở đây có mạch nước ngầm từ con sông chảy vòng quanh chân núi, quanh năm trong vắt mát mẻ lắm bác ạ. Có chuyện gì hay sao mà bác lại hỏi vậy?”

Ông Hai mỉm cười rồi đáp:

“Vậy là tốt rồi, cũng không có gì cả. Cảm phiền chị mang giúp ta một ấm nước lạnh lên trên phòng, nhớ phải là nước múc từ giếng lên mà chưa được đun sôi nhé. Ta đi một lát rồi quay về ngay thôi.”

Ông Hai nói xong thì nhằm thẳng hướng cuối dãy chợ mà đi vào. Nửa tuần hương sau đã thấy ông quay về không nói không rằng đi thẳng lên trên phòng. Trên bàn uống trà đã thấy ấm nước lọc vợ Trần Dương đặt sẵn ở đó. Ông lấy từ trong ngực áo ra tấm khăn tay bằng lụa ban nãy trải ra trên mặt bàn. Rồi lại lấy từ trong túi áo của mình ra một bọc giấy được gấp vuông vắn, bên trong chứa toàn là đất khô khốc có màu xám xịt. Ông đổ chỗ đất ấy lên cái khăn trên bàn, tiện tay đổ một chút nước lã trong ấm vào đấy, rồi tiếp đến dùng một con dao nhọn chích 3 giọt máu từ đầu ngón tay của mình nhỏ chung vào hỗn hợp đất và nước ấy. Sau cùng ông túm gọn cái khăn lại, dùng dây chỉ buộc thắt lại thành hình một cái bọc giống như người ta vẫn dùng vải mà gói quà bánh ở bên trong. Ông mang cái bọc vải ấy hơ qua hơ lại trên ngọn đèn dầu, khéo léo tỉ mẩn đủ để cái bọc vải ấy được ngọn lửa làm cho nóng lên, nhưng lại không bị cháy xém đi. Vừa làm ông vừa lầm rầm nhẩm đọc thần chú trong miệng. Độ một tuần hương sau, khi mà chỗ nước ban nãy ông nhỏ vào đất thấm ra làm ướt tấm khăn bọc bên ngoài đã được lửa hong khô hết thì ông dừng lại, cất gọn bọc vải vào một nơi không ai biết rồi mới yên tâm trèo lên giường đi ngủ.

Liên tiếp mấy ngày sau đó ông không ra khỏi nhà, chỉ nhốt mình ở trong phòng và lặp đi lặp lại hành động đó mỗi ngày hai lần vào sáng và tối. Mỗi ngày ông đều đứng trước cửa sổ ở lầu hai mà nhìn xuống dòng người tất bật mua bán dưới lòng đường. Ánh mắt chăm chú như đang chờ đợi một thứ gì đó. Những ngày lại sau ông càng tăng thêm tần suất hành động kì lạ kia. Mỗi lần làm như thế ông đều phải dích ra ba giọt máu của mình. Chỉ chưa đầy một tuần mái tóc ông đã bạc đi trông thấy, cơ thể ông cũng hốc hác đi nhiều.

Hết ngày thứ 7 qua ngày thứ 8 người mà ông đợi cuối cùng vẫn không thấy đến. Từ sáng sớm, những người dân trong trấn đã tập trung hết trước cửa tiệm vải Hoa Gấm. Hôm nay chẳng còn ai có tâm trí đâu mà buôn bán nữa, những cửa tiệm ở hai bên đường đều đóng cửa. Họ mang đến đủ những thứ mà ông Hai đã dặn trước đó. Ông Hai từ trên nhà bước xuống, vẻ mặt mệt mỏi trông thấy khiến ai nấy đều ái ngại. Sau đó tất cả cùng nhau kéo đến khu nhà trò.

Đứng trước cánh cửa gỗ màu đen nằm im lìm trước mặt, ai nấy đều ái ngại không dám bước vào trong. Nhớ đến vẻ mặt hoảng sợ của những người trước đây từ trong bước ra, bất giác ai nấy đều rùng mình mấy cái. Ông Hai đành phải tiến lên trước tự tay mở cửa ra rồi lên tiếng trấn an mọi người:

“Bà con đừng sợ, bây giờ là ban ngày yêu ma quỷ quái không thể xuất hiện hù doạ mọi người được đâu. Hơn nữa đã có ta ở đây rồi, mọi người theo ta vào trong, chúng ta cần chuẩn bị xong pháp sự trước khi trời tối.”

Nghe ông Hai nói vậy người ta mới thấy an tâm hơn đôi chút, họ theo sau chân ông mang đồ đạc vào trong nhà. Tuy nhiên họ vẫn rất cẩn trọng đi sát cạnh nhau, đến thở mạnh cũng không dám. Dưới sự chỉ đạo của ông Hai, mỗi người một việc tất bật chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho lễ cầu siêu vào tối nay.

Theo chỉ dẫn của ông Hai, từ khu đất trống ở hoa viên, người ta lần lượt tìm thấy nơi chôn cất của 17 đứa trẻ, là 17 linh hồn tội nghiệp bị mẹ chúng đang tay phá bỏ từ khi chưa kịp thành hình. Mỗi thai nhi khi ấy mới chỉ là một giọt máu nhỏ, còn chưa có hình hài xương cốt. Người ta chỉ bọc giọt máu của mình trong một tấm vải nhỏ rồi chôn vùi xuống lòng đất lạnh lẽo, giống như chôn vùi đi cái quá khứ dơ dáy mà cho đến tận sau này khi mà nhà trò giải thể, mỗi cô gái đi về một nơi họ cũng đã quên luôn tội ác mà trước đây mình từng gây nên. Trải qua một quãng thời gian dài, giờ đây người ta chỉ tìm thấy những tấm vải được dùng để bọc thân xác những đứa trẻ xấu số còn vương lại chút tà khí trên đó mà thôi. Chỉ có một vài trường hợp bị phá bỏ khi đã già tháng, có chút hình hài thì trên tấm khăn còn vương lại chút vết tích màu xám xịt như bùn đất. Mỗi lần tìm thấy một đứa trẻ như thế, những người phụ nữ lại khóc nấc lên. Trong khi họ khao khát được làm mẹ nhưng không thành, tại sao lại có những người phụ nữ nhẫn tâm đến như vậy? Lần lượt, lần lượt từng tấm vải được tìm thấy khiến sự đau sót và thương tâm ngày càng được đẩy cao lên đến tột độ. 17 đứa trẻ, 17 tội ác có lẽ sẽ vĩnh được chôn vùi trong một mảnh đất chỉ vài trượng này nếu như không có ông Hai xuất hiện ở đây. Kì lạ một chỗ, ông Hai cũng chỉ là một người trần mắt thịt giống như mọi người, nhưng dường như ông có thể nhìn xuyên qua lớp đất xám khô khốc trên bề mặt mà biết được chính xác có thứ gì được giấu dưới lòng đất. Ông chỉ chính xác tuyệt đối nơi mà những thai nhi xấu số bị chôn vùi. Càng lúc người ta lại càng thêm khâm phục ở năng lực của ông, và lại càng có thêm hi vọng những tháng ngày ảm đạm ở trấn Rừng Thông đã dần đi đến hồi kết.

Đến xế chiều thì công cuộc đào bới cũng đã dần kết thúc. Tổng cộng 17 đứa bé đã được tìm thấy chỉ còn duy nhất xương cốt của con bé Sún là chưa thấy đâu. Lúc này ông Hai mới điềm tĩnh chỉ vào gốc cây hoa dâm bụt mà nói:

“Còn đứa bé cuối cùng nằm ở đây. Mọi người chặt cây hoa này đi rồi đào sâu xuống dưới. Chú ý nhẹ tay đừng làm tổn hại đến xương cốt của đứa trẻ tội nghiệp. Nhanh tay lên trời sắp tối rồi.”

Nói là làm, những người đàn ông trai tráng khoẻ mạnh xúm vào mỗi người một tay. Người thì lấy dao chặt cây, người dùng xẻng đào sâu xuống dưới. Chưa đầy một tuần hương sau người ta đã lôi được cả bộ rễ cây hoa lên trên mặt đất. Và ai nấy đều kinh hãi khi phát hiện ra rằng, cái cây dâm bụt này được trồng ngay trên thân xác của con bé Sún. Có thể năm xưa sau khi gây nên tội ác tày đình, lão chủ nhà trò đã bí mật chôn xác con bé ở hoa viên này, sau đó sợ đào bới gây chú ý liền trồng một cây hoa dâm bụt lên trên. Vô tình thân xác của cô bé lại trở thành nguồn dinh dưỡng nuôi cây hoa cao lớn khác thường như vậy. Bộ rễ của cây cắm sâu vào lòng đất, ghim chặt cả vào thân xác tội nghiệp của cô bé xấu số. Sau khi bộ rễ cây được lấy lên, ngay phía dưới là một đống xương cốt trắng ởn của con nít, ở một vài vị trí xương đã bị rễ cây phát triển mà chèn ép cho gãy vụn biến dạng. Đứng trước cảnh tượng này, không ai là cầm được nước mắt.

Lúc này trời đã về chiều, mặt trời đã dần khuất sau dãy núi. Ông Hai tự tay mình nhặt từng mảnh xương cốt từ dưới hố lên, rửa sạch sau đó lần lượt xếp đúng vị trí theo cấu tạo xương người vào một cái tiểu quách được lót một lớp vải đỏ. Xong xuôi ông quay qua làm tương tự với 17 đứa trẻ còn lại. Chỉ có điều thân xác chúng không còn, ông chỉ còn cách đặt những tấm vải được tìm thấy vào trong quách, lại bốc từ chỗ tìm được mỗi đứa một nắm đất tượng trưng đặt vào trong, sau đó đóng nắp lại. Làm vừa xong thì trời cũng vừa kịp tối. Dưới ánh đuốc lập loè soi sáng, tổng cộng 18 tiểu quách được xếp thành một vòng tròn, vây lấy ông Hai ở giữa. Cảnh tượng vừa đau lòng, vừa khiến ai yếu bóng vía phải rùng mình khiếp sợ.

Khi bóng đêm nhấn chìm vạn vật vào sâu trong sự u tối của nó thì đại lễ cầu siêu cũng đã được chuẩn bị tươm tất. Ông Hai ngồi chấp bằng trên mặt đất, mặc trên mình bộ đồ của thầy tu, trước mặt ông là rất nhiều cây đèn cầy được thắp sáng, một cái mõ và một cái chuông bạc. Xung quanh ông là 18 tiểu quách vừa được khai quật được xếp thành một vòng tròn. Phía ngoài những tiểu quách ấy là đông đủ những người dân ở trong trấn đến để tham dự đại lễ. Như sắp xếp của ông Hai từ trước, những người phụ nữ tập trung lại một phía, ăn mặc chỉnh tề, cũng ngồi xếp bằng trên đất để trợ niệm cùng ông.

Suốt cả ngày hôm nay, chốc chốc ông Hai lại đảo mắt ra phía cửa như đang chờ đợi một ai đó. Cho đến giờ phút này người ấy vẫn không đến. Nén một tiếng thở dài, ông Hai quay qua phía đám đông rồi nói:

“Trước khi bắt đầu buổi lễ, ta cần căn dặn mọi người một số điều như sau. Trước hết, trong quá trình làm lễ cho dù có thấy điều gì bất thường hay kinh dị đi chăng nữa, mọi người hãy bình tĩnh mà ngồi yên ở vị trí của mình, không được hoảng loạn hay bỏ chạy sẽ gây ảnh hưởng đến đại sự. Chỉ cần còn ta ở đây thì bọn chúng sẽ không dám làm hại ai đâu. Sau nữa, đêm nay mọi chuyện sẽ phải kết thúc. Ngay từ đầu chúng ta mở ra đại lễ cầu siêu với mong muốn giúp bọn trẻ sớm ngày được siêu sinh tịnh độ. Nhưng trong trường hợp xấu nhất không kiểm soát được quỷ tính của chúng, ta buộc phải dùng bùa chú đánh cho chúng hồn tiêu phách tán. Chuyện đêm nay chúng ta có thể cứu rỗi linh hồn của những đứa trẻ tội nghiệp này hay không, một phần rất lớn nhờ vào công của quý vị ở đây. Hãy thành tâm cầu nguyện cho lũ trẻ. Mong rằng đêm nay mọi chuyện sẽ kết thúc trong êm đẹp. Bây giờ tới giờ rồi, chúng ta bắt đầu thôi.”

 
 

The comment box
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Loading...