Chúng tôi ngẩng đầu nhìn lên, hóa ra khói hiệu ở phía xa đã từ từ
loãng đi, không biết ở bên đó xảy ra biến cố gì, hay là đốt không đủ
viên khói. Thế này thì, khói này sẽ không trụ nổi đến lúc chúng tôi tới
được nơi mất.
Ở trong rừng rậm, nếu như không có khói hiệu chỉ đường, chúng tôi
không có dẫn đường, chắc chắn không thể nào đến chỗ đó được. Chúng tôi
bèn hỏi Phan Tử xem có cách nào không? Phan Tử bèn leo lên cây quan sát, lấy vị trí khói tín hiệu làm tâm chính giữa, lấy tảng đá kỳ quái trên
vách đá sát mép thung lũng ở phía xa tít tắp làm vật tham chiếu, đánh
dấu ký hiệu trên la bàn, nói rằng, chỉ cần đi đến vị trí trọng điểm ở
giữa hai tảng đá kỳ quái trên vách núi kia là chắc chắn có thể đi qua vị trí đốt khói hiệu. Có điều, cánh rừng này quá rậm rạp, cho dù sai số
chỉ có 10 mét thì cũng có thể bỏ qua mất, cho nên chúng tôi phải cố gắng đến gần đó trước khi khói tắt.
Vậy không thể nán lại thêm nữa, chúng tôi lập tức chỉnh đốn trang bị, từ vị trí ứng với la bàn của Phan Tử, xuất phát tiến về phía khói hiệu
trong vùng đầm lầy.
Vào ban ngày, đi qua vùng nước ở sát biên giới đầm lầy cực kỳ dễ
dàng, bởi vì nước trong đầm này là nước mưa tụ lại, mực nước dâng cao
lại trong suốt, chúng tôi có thể tìm được những tảng đá có thể đặt chân
tới ở dưới đáy nước, không có chỗ nào đặt chân thì đành bơi, chỉ mất sức khoảng nửa điếu thuốc chúng tôi đã vượt qua rồi, bước đến biên giới
vùng đầm lầy thực sự.
Đó là một khu rừng mưa tương đối lưa thưa, địa hình ở đây rõ ràng khá cao, rất nhiều những “bầy cây” nhô hẳn lên khỏi mặt nước, trông giống
như những hòn đảo nhỏ, có thể nhìn thấy số lượng lớn những tảng đá lộn
xộn lẫn trong nước bùn ở khu vực này, nhìn qua thì có vẻ như mực nước
không sâu.
Nhưng khi đi vào trong sẽ phát hiện, cây cối ở khu vực này rất nhanh
liền trở nên dày đặc. Chỉ khoảng hai trăm mét về sau, tán cây lại rậm
rạp sum suê đến mức ánh sáng trời không lọt qua được nữa. Rễ cây cuốn
tròn, xoắn xuýt vào với nhau, trước đây tôi kỳ thực có một ý nghĩ, đó là đóng một cái thuyền độc mộc, như thế là khỏi phải cẩn thận rón rén lội
xuống nước nữa. Nhưng trong tình hình nước non như thế này, liền biết
thuyền độc mộc ở đây đi nửa bước đã khó rồi, không tự mình bước đi không được.
Vào sâu trong rừng, ánh sáng vô cùng u ám, chẳng mấy chốc, khắp bốn
phía toàn là rễ cây, trên rễ cây quấn chằng chịt dây leo, trên dây leo
lại phủ đầy rêu xanh biếc, hơi ẩm phả vào người, cái kiểu quấn quýt đó,
đầy trời đầy đất, đa phần chúng tôi toàn phải phủ phục người xuống mới
miễn cưỡng chui qua được, cảm giác giống như đang đi vào một hang núi
khổng lồ mọc đầy cây cối.
Phan Tử chặt hết dây leo chặn đường, bởi vì hầu như giữa tất cả các
cây đều có rễ và dây leo móc nối với nhau, cho nên chúng tôi ngược lại
gần như không phải lội nước, đi trên dây leo to bằng bắp đùi bắc ngang
giữa không trung cũng đã rất vững rồi.
Nhưng điều khiến chúng tôi lấy làm lạ đó là, trong rừng cây dày đặc
như thế, lại yên tĩnh đến dị thường, ngoại trừ những tiếng động khi
chúng tôi bước đi, không còn nghe được bất cứ động tĩnh nào khác, yên
tĩnh đến mức hơi khó chịu.
“Địa bàn của Tây Vương Mẫu quả nhiên là tà môn,” Bàn Tử vừa đi vừa nói: “Mẹ kiếp ngay cả tiếng chim kêu cũng chả có luôn.”
“Đâu chỉ thế, hình như ở đây chẳng có gì cả?” Tôi nghĩ thầm, yên tĩnh đến mức thật không bình thường, khiến tôi có một ảo giác: ngoại trừ
những cái cây ra thì có lẽ chúng tôi là những sinh vật sống duy nhất
trong cánh rừng này.
“Hay là ở đây nhiều rắn quá, xơi sạch lũ chim rồi?” Phan Tử nói.
“Không có khả năng, nếu vậy bây giờ bọn rắn ăn cái gì?”
Nhớ đến loại rắn này, mọi người lại căng thẳng một hồi, có điều, suốt chặng đường lại không đụng phải bất kỳ bóng dáng của con rắn nào, điều
này làm chúng tôi có hơi ngạc nhiên.